Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối giữa khách hàng có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn.

Tòa nhà chính của SEB tại Tallinn, Estonia


Do ảnh hưởng của chúng trong hệ thống tài chính và nền kinh tế, các ngân hàng bị quy định cao tại hầu hết các nước. Hầu hết các ngân hàng hoạt động theo một hệ thống được gọi là hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn mà họ chỉ nắm giữ một dự trữ nhỏ của các khoản tiền gửi và cho vay phần còn lại để kiếm lời. Điều này nói chung là tùy thuộc vào các yêu cầu vốn tối thiểu được dựa trên một bộ tiêu chuẩn quốc tế về vốn, được gọi là Hiệp ước vốn Basel.


Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển từ thế kỷ 14 tại các thành phố giàu có của Ý thời Phục hưng nhưng trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay bắt nguồn từ thế giới cổ đại. Trong lịch sử hoạt động ngân hàng, một số triều đại ngân hàng đã đóng một vai trò trung tâm trong nhiều thế kỷ.


Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của từ này có thể được truy nguồn tới nước Ý thời trung cổ và đầu Phục Hưng, đến các thành phố giàu có ở phía bắc như Firenze, Lucca, Siena, Venice và Genoa. Các Bardi và các gia đình Peruzzi thống trị hoạt động ngân hàng trong Florence thế kỷ 14, bằng cách thành lập chi nhánh ở nhiều nơi khác của châu Âu.[1] Một trong những ngân hàng nổi tiếng nhất của Ý là Ngân hàng Medici, được thành lập bởi Giovanni di Bicci de 'Medici năm 1397.[2] ngân hàng tiền gửi nhà nước được biết đến sớm nhất, Banco di San Giorgio (Bank of St. George), được thành lập năm 1407 tại Genoa, Ý.[3]


Ngân hàng lâu đời nhất còn tồn tại là Monte dei Paschi di Siena, trụ sở chính tại Siena, Ý, đã hoạt động liên tục kể từ năm 1472.[4] Tiếp sau đó là Berenberg Bank của Hamburg (1590)[5] và Sveriges Riksbank của Thụy Điển (1668).


Từ bank đã được vay mượn trong tiếng Anh trung cổ từ tiếng Pháp trung cổ banque, từ tiếng Ý cổ banca, từ Old High German banc, bank "ghế, quầy". Các ghế đã được sử dụng như các cái bàn hay các quầy giao dịch trong thời kỳ Phục hưng bởi những nhà hoạt động ngân hàng Florentine, những người đã từng tiến hành các nghiệp vụ của họ trên mặt những chiếc bàn được phủ khăn trải bàn màu xanh lá cây.[6]


Một trong những món cổ vật lâu đời nhất được tìm thấy cho thấy các hoạt động đổi tiền là một đồng tiền drachm Hy Lạp bằng bạc từ Trapezus thuộc địa của Hy Lạp cổ đại trên Biển Đen, hiện đại Trabzon, 350-325 trước Công nguyên, được trưng bày trong Bảo tàng Anh tại Luân Đôn. Đồng xu cho thấy một bàn của người làm ngân hàng (trapeza) đầy tiền xu, một sự chơi chữ tên của thành phố. Trong thực tế, ngay cả ngày nay trong tiếng Hy Lạp hiện đại từ trapeza (Τράπεζα) có nghĩa đồng thời là bàn và ngân hàng.


Các chức năng kinh tế của ngân hàng bao gồm:


Phát hành tiền, trong các hình thức tiền giấy và các tài khoản vãng lai cho séc hoặc thanh toán theo lệnh của khách hàng. Những yêu cầu này trên các ngân hàng có thể hoạt động như tiền bạc bởi vì chúng có thể thỏa thuận hoặc có thể chi trả theo yêu cầu, và do đó có ngang giá trị. Chúng là có thể chuyển nhượng một cách hiệu quả chỉ bởi việc giao đi, trong trường hợp của tiền giấy, hoặc bằng cách rút một tấm séc mà ngân hàng có thể nhận thanh toán hoặc trả tiền mặt.


Hoạt động mạng lưới và giải quyết thanh toán – các ngân hàng hoạt động như các đại lý thu thập và trả tiền cho khách hàng, tham gia thanh toán bù trừ liên ngân hàng và các hệ thống giải quyết thanh toán để thu thập, trình bày, được trình bày với, và chi trả các công cụ thanh toán. Điều này cho phép các ngân hàng tiết kiệm các dự trữ được nắm giữ để giải quyết các khoản thanh toán, do các thanh toán tiền đi và về bù trừ cho nhau. Nó cũng cho phép bù trừ của các dòng thanh toán giữa các khu vực địa lý, giảm chi phí giải quyết giữa chúng.


Trung gian tín dụng – các ngân hàng vay và cho vay back-to-back trên tài khoản của mình như những người đàn ông trung niên.


Cải thiện chất lượng tín dụng - các ngân hàng cho vay tiền đối với các người vay thương mại và cá nhân thông thường (chất lượng tín dụng thông thường), nhưng là những người vay chất lượng cao. Cải thiện đến từ sự đa dạng hóa tài sản và vốn của ngân hàng mà cung cấp một bộ đệm để hấp thụ thua lỗ mà không vỡ nợ về các nghĩa vụ của nó. Tuy nhiên, tiền giấy và tiền gửi nói chung không có bảo đảm; nếu các ngân hàng gặp khó khăn và cam kết các tài sản là bảo đảm, nâng cao kinh phí nó cần thiết để tiếp tục hoạt động, điều này đặt người nắm giữ tiền và người gửi tiền ở một vị trí trực thuộc kinh tế.


Không phù hợp trách nhiệm tài sản/Chuyển đổi đáo hạn – các ngân hàng vay nhiều hơn trên nợ nhu cầu và nợ ngắn hạn, nhưng cung cấp các khoản vay dài hạn hơn. Nói cách khác, họ vay ngắn và cho vay dài. Với chất lượng tín dụng mạnh hơn hầu hết người đi vay khác, các ngân hàng có thể làm điều này bằng cách tập hợp các phát hành (ví dụ như nhận tiền gửi và phát hành tiền giấy) và các chuộc lại (ví dụ như các rút tiền và chuộc lại tiền giấy), duy trì dự trữ tiền mặt, đầu tư vào các chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt nếu cần thiết, và nâng cao kinh phí thay thế khi cần thiết từ nhiều nguồn khác nhau (ví dụ như thị trường tiền mặt bán buôn và thị trường chứng khoán).


Sáng tạo tiền – bất cứ khi nào một ngân hàng cho ra một khoản vay trong một hệ thống hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn, một tổng số tiền ảo mới được tạo ra.